Còn nhiều điều …bí mật
Chi
Linh (Hải Dương) – quê hương bát cổ với rất nhiều di tích lịch sử văn hóa đang được
bảo tồn, những hạng mục dựng xây cùng vốn đầu tư mang tầm cỡ quốc gia xây dựng
đền thờ thày giáo Chu Văn An, Côn Sơn, Kiếp Bạc. Mở rộng khu vực đền Sinh, đền
Hóa vv...mà vẫn giữ được những nét cổ truyền đậm sắc thái văn hóa địa phương.
Đặc
biệt là xã An Lạc( Chí Linh, Hải Dương)
với những địa danh còn lưu giữ phần văn hóa địa phương pha trộn giữa huyền
thoại và dấu ấn lịch sử oai hùng của thời Đông A.
Xã
An Lạc có đền Cao thờ năn anh em họ Vương với nhều truyền thuyết nói về cái
cung cấm quanh năm cửa đóng im ỉm rất linh thiêng. Bất cứ ai…dù chỉ là tò mò
đẩy cửa nhòm vào đều bị những hình phạt thảm khốc, chí ít là ốm thập tử nhất
sinh đến rụng tóc đầu, nặng thì toi mạng.
Cách
bài trí với khoảng không gian trong cung cấm?, có tượng, bài vị , không? Đấy là
điều bí mật chưa được lời giải đáp.
Từ
thủa bé mặc quần đùi đi chân đất và chẳng biết tự lúc nào, dấu ấn nào đã in đậm trong tôi đó là ngôi đền
thờ tướng giặc bên Ngô. Lúc đó, cung cấm có bệ thờ bằng đất , nền là nền đất ẩm
thấp (hình như bây giờ vẫn vậy). Khi đi học, biết đọc lịch sử và xuy ngẫm tôi
mới biết ra rằng: với kế sách ngoại giao cương quyết nhưng mềm dẻo của một nước
nhỏ với một nước lớn thời bấy giờ, cha ông ta đã cho phép người HOA sống trên
đất Việt được phép xây dựng đền thờ để họ cúng giỗ tổ tiên của họ. Tôi đã tìm
được lời giải đáp- đó là việc hợp lòng
nhân nghĩa, là việc cần làm của cha ông
lên mọi thắc mắc cũng dần quên lãng đi .
Vào những 90 của thế kỷ trước, khi đọc bằng chứng nhận “Di
tích lịch sử văn hóa” đền Cao tôi mới biết, đền Cao là một trong những ngôi đền
ở xã An Lạc thờ năm anh em họ Vương?
Những năm gần đây, tôi thường được tăng cường công việc bảo
vệ những kỳ lễ hội đền Cao lên càng có dịp tiếp súc, tìm hiểu thêm ở phần văn
hóa tâm linh này.
...Việt Nam với tục thờ Mẫu.
đó là các đấng siêu nhiên và những nhân thần được dân gian tôn phong, thần
thánh hóa thêm việc đấu tranh, bảo
hộ của nhân vật mà dân gian
đang thờ tự. Ở đây, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống hiện hữu chứ không quan tâm
đến cái gì sau khi chết đi như đạo thờ phật. Đến với đạo Mẫu là đến với sự bảo
hộ, đấu tranh, là trừ tà, tróc quỷ. Theo quan niệm của đạo Mẫu, khi ta đến dâng
hương ở các đền đình thì không một tà ma nào dám đi theo làm hại được.
Cũng chính vì vậy, ta không hề thấy ở bất cứ
một đình, đền nào có lăng mộ trong nội tự chôn cất những thi hài như ở các chùa chiền.
Trở
lại với đền Cao- một ngôi đền cổ nổi
tiến linh thiêng tọa lạc trên đỉnh núi rợp bóng cây, ngay sát tường hậu cung về
hướng tây là những ngôi mộ cổ cũng rất linh thiêng và huyền thoại, đặc biệt có
ngôi mộ là ông tổ của mười hai dòng họ như họ Cao, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Hoàng
vv… Những nghi thức trọng đại như: xin lệnh làm “ông Trùm” của đền Cao đều được
tổ chức trang trọng ở đây chứ không phải ở trong đền. Tước vị này là suốt đời.
Nếu hệ lụy đại tang danh tước bị hủy bỏ, dân làng làm đại lễ để xin bầu ông
trùm mới. Sau những vòng “Sơ khảo” ứng
cử đến trước ngôi mộ linh thiêng là ông tổ của 12 dòng họ “ xin đài”âm dương
bằng cách đầu đội một cái mâm trên đó có hai đồng xu , từ từ nghiêng mâm dội
hai đòng xu xuống một cái mâm khác ở phía dưới với khoảng cách khoảng 0,70m.
Chỉ xin một lần( nhất đài), nếu không đắc
đài (đắc đài là hai đồng xu mặt sấp mặt ngửa ) chức vị đó khuyết , năm sau dân
làng làm “ đại lễ” xin lại.
Nhìn chung, đền hay đình, có thể các sách , các bia, và cả
phần “Hội” cũng bị “tam sao thất bản”. Còn
các nghi thức về “ lễ” thì bền vững hơn
vì mang nặng tính đặc trưng thờ cúng của ngôi đền, đình đó.
Đền Cao cũng vậy. Phần “Hội”, ngoài các trò vui truyền thống như rước kiệu,
cờ tướng, chọi gà vv… Còn có thêm những trò chơi hiện đại : bóng chuyền, cầu
lông...
Tán tía, lọng vàng, đai vàng khảm
ngọc, nhã nhạc vang lừng theo điệu“Lưu thủy”. Đó là đặc trưng phần “ Lễ” của người Việt. Đền
Cao thì khác hẳn, khi tế lễ, trống không theo điệu “Lưu thủy” . Các “ Quan viên
tế” áo thụng mầu đen, đội mũ mầu đen, chân đất, mồm bịt một miếng vải. Ban khánh tiết( ban bô lão chuyên lo việc lễ
cho các tiết Hạ, Thu, Đông vv…) thì gọi là “Quan đám”, khi dâng hương trong đền
phải là hương đen. Cao hơn tất cả “quan đám” là “ ông trùm” ( chức ông trùm là tối thượng ở đền, được cả
tổng xã trọng vọng)
Đây
quả là một điều khác lạ khiến ta phải xuy ngẫm?.
An
Lạc còn một làng có đặc trưng rất riêng biệt.
Đó là làng An Bài. Làng này không bao giờ đi lễ ở đền Kiêp Bạc ( thờ
Trần Hưng Đạo )Các trai đinh không phải làm phu kiệu (khênh kiệu) ở đền Cao, và cũng chính là làng có miếu thờ Phạm Nhan.
Cách đây khoảng 20 năm, tôi đã đến thôn An Bài tìm hiểu nhưng không một ai mặn
mà câu truyện để chỉ lối đưa đường. Nhờ mãi, một người bạn đồng ngũ đã đồng ý
cùng tôi vạch được đám cây rừng um tùm ven sông đến một ngôi miếu nhỏ tưởng chừng
như hoang phế nhưng vẫn có bát hương và những chân hương cháy dở, vén tấm vải
trên ban thờ không có bài vị, chỉ có hình đắp nổi một con đỉa rất to. Tôi rùng
mình quay ra.
Phạm Nhan- Dân gian ai cũng biết tên hắn. Vì tính khách quan
của lịch sử, chúng ta cùng tìm hiểu.
Hắn tên Bá Linh, họ Phạm, Phạm Nhan là tên chữ khi hắn đi thi và làm quan. Theo PGS- TS
Nguyễn Đăng Na – một nhà Hán Nôm rất nổi tiếng ở nước ta- bố hắn là người Quảng Đông(Trung Quốc )sang
buôn bán ở chợ Đông Hồ, lấy vợ làng An Bài và sinh ra hắn tại đây. Lớn lên hắn
về quê cha, đi thi, đỗ tiến sỹ, vì có tài làm thuốc lại biết pháp thuật lên
được tuyển vào cung. Do thông dâm với cung nữ,
bị khép án chém đầu. đúng lúc đó vua Nguyên khởi công đánh Đại Việt lần
thứ ba. Hắn xin cầm quân, lấy công chuộc tội với lý do rất thông thuộc “Sào
huyệt” của tiết chế Hưng Đạo Đại Vương”. Đạo quân của hắn tràn vào Đại Việt với
mối hận rửa nhục hai lần thất trận nên đi đến đâu chém giết rất dã man.
Chiều ngày 9/ 3/ 1288 hắn bị đại bại trên sông Bạch Đằng và
bị bắt sống.
Huyền thoại về cái chết của hắn cũng rất “Hiện đại” Đáng để
người đời xuy gẫm’
Chuyện
kể rằng: khi Hưng Đạo Đại Vương bắt được
tướng giặc Phạm Nhan đem chém đầu, cứ chém đầu này thì đầu khắc lại mọc, nhờ có
bà hàng nước mách bảo: Lấy vôi trộn với cứt gà sáp bôi vào gươm. Khi mang gươm
tới, Phạm Nhan biết mình xẽ chết bèn cầu xin: xin hãy chém tôi thành ba mảnh,
phần đầu thả xuống sông, thây vứt vào rừng, chân tay đem
đốt rồi tung lên trời. Lời cầu xin của kẻ xắp chết được ưng
chuẩn.
Sau
này, phần thân Phạm Nhan biến thành vắt , phần chân tay biến thành muỗi, còn
phần đầu biến thành đỉa nhưng có cái lạ là cái đầu không bị phân hủy, mục thối,
cứ xuôi theo sông trôi về đến làng An Bài (Chí Linh, Hải Dương) thì tấp vào bờ,
không trôi đi nữa.
Từ đó, cái đầu Bá Linh tác oai tác quái, nhất là đàn bà sau
khi mới sinh nở nếu có việc phải đi qua chỗ đó xẽ bị Phạm Nhan bắt mất vía để
hút hết máu, gầy mòn dần cho đến chết. Người phụ sản nào bị mắc bệnh “Phạm
Nhan” cứ mua chiếu mới , mang đến đền Kiếp Bạc đổi lấy chiếu cũ đem về trải nằm
là bệnh xẽ thuyên giảm.
Để
không bị hại, dân làng lập miếu thờ Phạm Nhan.
Chyện
thật sâu sắc và ghê tởm về một đứa con
phản bội, dám vì mạng sống của mình mà mang quân về giầy séo đất quê mẹ, trên thì
đắc tội với cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ quê mẹ, chết rồi còn đi hút
máu người, đến cả máu hôi hám của đàn bà mới đẻ hắn cũng thèm thuồng.
Chuyện có kể dân lập miếu thờ Pham Nhan với dụng ý nhắc nhở
muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho
đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, đó là
tấm gương minh chứng cho sự thối tha hơn cả mọi sự thối tha.
Mỗi thời có một cách giáo dục khác nhau nhưng nếp nghĩ ấy,
niềm tin ấy đáng kính biết chừng nào.
Làng MO.Ngày 2 tháng 7 năm 2012
NGUYỄN
TÔ QUANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét