Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012
Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012
Đền Mo(An mô, Lê Lợi, Chí
Linh, Hải Dương)
huyền thoại & lịch sử
Toang đá sinh thần lừng
vũ trụ
Bay tầu qua núi đuổi quân
Ô
Bất tử trời Nam thần bậc
nhất
Sử tryền Thánh tích đất
An Mô*
*dịch thơ từ Trúc văn Thánh tích
Truyện sưa kể lại rằng: có một khối đá Linh bên sườn non Ngũ nhạc. vào
giờ dần, ngày tám tháng năm tự nhiên chuyển động, nứt toang đá sinh ra một hài
nhi. Trẻ mục đồng dùng tay khiệu về đến đầu làng, hài nhi bay vọt lên trời(phi
bồng) hóa mất. dân làng lập đền thờ nơi Thánh sinh gọi là đền Sinh( hay đền
Mẫu) nơi Thánh biến mất gọi là đền Hóa hay đền Thánh. Lấy tên húy là thánh Phi
Bồng(bay lên không trung ) và ngày đá nứt là ngày trọng lễ.
Năm 1994, hai ngôi đền được nhà nứơc cấp bằng DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ,đền
được nâng cấp trùng tu với những balo áp phích, in sách quảng bá thập phương
với sự tích tôi xin sơ lược lại như sau:
*…đền thờ Chu Phuc Uy, ngài có công đánh giặc, phong thánh thờ tự tại
đền…
*lê Phúc biên soạn
Khi hai ngôi đền được giao cho BQL di tích thị xã Chí Linh quản lý. Vào
những ngày tế lễ, đọc trúc… vv, nhân đân địa phương đã góp ý với thái độ cương
quyết, ông Lê Phúc sửa tích lại là:
…Đức Ngài giáng hạ 2 lần, lần đầu vào Thạch Đá hiển Thánh Phi Bồng phò
tiền Lê, lần hai Ngài giáng hạ vào bà Hoàng Thị Loan (bà Loan lúc đó đã 60 tuổi,
cầu tự tại đền An Mô ) sinh ra Chu Phúc Uy.Phúc Uy kháng Nguyên, Hy sinh tại
Phượng Nhỡn( Bắc Giang) Mang về phối thờ cùng Thánh Phi Bồng…
Hai ngôi đền Mo hiện nay không hề có bài vị, tượng, mũ aó hay bát nhang
bệ thờ nhân thần Chu
Phúc. Văn thờ, sớ tấu, trúc văn và những sắc phong đều tước hiệu thiên thần
Thánh Phi Bồng, khi rước cũng chỉ rước kiệu có bát nhang Thánh Phi Bồng
Xin lấy văn tế “ hạ giải..”làm dẫn chứng :
Văn tế dâng hương hạ giải hậu cung
đền Sinh, đền Hóa *
Việt nam quốc – Hải dương tỉnh- Chí linh thị= lê lọi
xã= An Mô thôn tối linh bản địa linh từ
…
Kính cáo: anh linh Ngũ Nhạc linh từ
Kính cáo: đức Quốc Mẫu đền Sinh
Kính cáo: đức Hạo Thiên Phi Bồng Thiên Tướng
Kính cáo Sơn thần Thổ địa, bản cảnh Thần Hoàng
Bách quan công đồng tả hữu phụng sự nhất thiết liệt vị uy linh Ngũ
Nhạc- An Mô linh từ
Hôm nay:
Trong tiết mùa hè Tân mão ngày 8 tháng 5, ngày Mẫu sinh Thánh hóa
Con cháu Đại Việt - nòi giống Lạc Hồng
U B N D tỉnh Hải Dương. Thị ủy, ban quản lý dy
tích thị xã Chí Linh - HĐND-UBND xã Lê
Lợi
Hội người cao tuổi và ND làng An Mô cùng quý khách thập phương
Về trước anh linh Đức quốc Mẫu đền Sinh - đức Hạo Thiên Phi Bồng thiên
tướng dâng nén trầm hương tưởng niệm
Lịch sử đã trải ngàn năm bia đá
Rừng thông đã bao lần thay lá
Suối Thạch Bàn kia mâý độ vơi đầy
Cây có gốc suối có nguồn
Ơn đức cao dầy xin dâng nén trầm hương
Hôm nay giữa cảnh núi non thanh bình thịnh vượng
Hưởng giang sơn gấm vóc nhớ công ơn tổ tiên xây nền
Chúng con thành tâm sắm sanh lễ vật
Quả ngọt hương thơm dâng lên Mẫu Sinh,
Thánh hóa
Lập đàn tế trời đất Ngũ Nhạc tối linh
Tế phật, tế Mẫu, tế Thánh, Sơn Thần Thổ Địa, bản cảnh Thần hoàng
Cùng chúng sinh xa gần chứng giám
Chúng con tâm tuy sáng nhưng đường đi chưa giành. Nay xin sám
hối cùng chung lòng:
Tôn tạo hậu cung đền Mẫu Sinh , Thánh Hóa khang trang tố hảo để Mẫu, Thánh
ngự đền trong cảnh rực rỡ nguy nga
UBND thi xã ChíLinh, ban quản lý di tích Chí Linh. Nguyễn thị Xuyến : trưởng đền, Nguyễn Văn
Dip:BV
quỳ bái đồng xin sám hối.
Thượng
tọa: Thich Diệu Quang quỳ tấu
*hạ giải là dỡ bỏ ,làm mới
Thế đó, con người làm lên lịch sử- dấu ấn không thể phai mờ- bài viết
này chỉ đề cập phần tâm linh ở góc độ nhìn rất nhỏ, nhưng ở đây có điều gì đấy
chưa ổn, mong rằng khi đến cửa thiền là để được rũ bỏ mọi ưu phiền cho lòng
thanh thản, để được ngưỡng mộ một cách sống cho nội tâm mình trong sáng hơn, nhưng phải là sự trong sáng của trời xanh mây
trắng với nắng tơ vàng đích thực.
cổng đền Hóa với 6 chữ hán dại tự: Lý triều Đại tướng Quốc sư(đại tướng triều Lý)
Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012
Lễ hội làng Mo( Chí Linh, Hải Dương)
Theo thần phả
bia ký tại đền Hóa ghi lại:
…Một
khối đá linh trên sườn non Ngũ Nhạc đã hợp đủ khí trời, vào giờ dần, ngày 8
tháng 5 tự dưng chuyển động phát ra một tiếng nổ lớn. Thấy sự lạ, trẻ mục đồng
hai làng Ngái và làng Mo chạy đến thấy khối đá nứt ra một khe hở lớn hương thơm
ngan ngát, ở giữa khối lõm có một hài nhi.
Trẻ hai làng bàn nhau rước về. Trẻ làng Ngái chạy về lấy kiệu, trẻ làng
Mo nhanh trí hơn, chúng bèn lấy nón làm lọng, lấy hoa lau làm cờ, dùng tay đan
lại làm kiệu rước hài nhi về. Đến đầu
làng, hài nhi bay vọt lên trời (Phi thiên) với lời vọng xuống: ta là : Ta là Thánh Phi Bồng thiên tướng…
Làng lập đền thờ nơi khối đá nứt ra gọi là
đền Sinh, nơi Thánh hóa về trời gọi là đền Hóa. Dân làng đã mở hội hàng năm để
kỷ niệm ngày Mẫu sinh .
Như vậy,
Thánh Phi Bồng là con của Thạch Mẫu*(Theo khẩu truyền: Hai làng Ngái và Mo đã nhiều lần sẩy ra xung
đột để tranh chấp đền Sinh. Khi kiện đến quan, quan cho gọi hương lý, kỳ hào cả
hai làng cùng phải ngủ ở đền Sinh, đến
giờ Dần quan gọi mọi người thức dậy để nghe tiếng gà gáy. Quan hỏi: gà làng nào gáy đấy ? ,mọi người
đều thưa: gà làng Mo gáy.
Quan bèn phán: đền Sinh là của làng Mo )
Hiện nay hai ngôi đền do ban quản lý di
tích thị xã Chí Linh quản lý. Đã có nhiều hạng mục được trùng tu với dự án quy
mô mang tính nhà nước mà vẫn giữ nét hoa văn cổ truyền độc đáo với những lễ hội
tưng bừng đậm sắc thái địa phương.
Đây là một vài hình ảnh về
hai ngôi đền và lễ hội làng Mo
cổng đền Sinhcỏng đền Hóa
Thứ Hai, 9 tháng 7, 2012
Theo thần phả bia ký tại đền Hóa ghi lại:
…Một khối đá linh trên sườn non Ngũ Nhạc đã hợp đủ khí trời, vào giờ dần, ngày 8 tháng 5 tự dưng chuyển động phát ra một tiếng nổ lớn. Thấy sự lạ, trẻ mục đồng hai làng Ngái và làng Mo chạy đến thấy khối đá nứt ra một khe hở lớn hương thơm ngan ngát, ở giữa khối lõm có một hài nhi. Trẻ hai làng bàn nhau rước về. Trẻ làng Ngái chạy về lấy kiệu, trẻ làng Mo nhanh trí hơn, chúng bèn lấy nón làm lọng, lấy hoa lau làm cờ, dùng tay đan lại làm kiệu rước hài nhi về. Đến đầu làng, hài nhi bay vọt lên trời (Phi thiên) với lời vọng xuống: ta là : Ta là Thánh Phi Bồng thiên tướng…
Làng lập đền thờ nơi khối đá nứt ra gọi là đền Sinh, nơi Thánh hóa về trời gọi là đền Hóa. Dân làng đã mở hội hàng năm để kỷ niệm ngày Mẫu sinh .
Như vậy, Thánh Phi Bồng là con của Thạch Mẫu*(Theo khẩu truyền: Hai làng Ngái và Mo đã nhiều lần sẩy ra xung đột để tranh chấp đền Sinh. Khi kiện đến quan, quan cho gọi hương lý, kỳ hào cả hai làng cùng phải ngủ ở đền Sinh, đến giờ Dần quan gọi mọi người thức dậy để nghe tiếng gà gáy. Quan hỏi: gà làng nào gáy đấy ? ,mọi người đều thưa: gà làng Mo gáy.
Quan bèn phán: đền Sinh là của làng Mo )
Hiện nay hai ngôi đền do ban quản lý di tích thị xã Chí Linh quản lý. Đã có nhiều hạng mục được trùng tu với dự án quy mô mang tính nhà nước mà vẫn giữ nét hoa văn cổ truyền độc đáo với những lễ hội tưng bừng đậm sắc thái địa phương.
Đây là một vài hình ảnh về hai ngôi đền và lễ hội làng Mo
Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012
Còn nhiều điều …bí mật
Chi Linh (Hải Dương) – quê hương bát cổ với rất nhiều di tích lịch sử văn hóa đang được bảo tồn, những hạng mục dựng xây cùng vốn đầu tư mang tầm cỡ quốc gia xây dựng đền thờ thày giáo Chu Văn An, Côn Sơn, Kiếp Bạc. Mở rộng khu vực đền Sinh, đền Hóa vv...mà vẫn giữ được những nét cổ truyền đậm sắc thái văn hóa địa phương.
Đặc biệt là xã An Lạc( Chí Linh, Hải Dương) với những địa danh còn lưu giữ phần văn hóa địa phương pha trộn giữa huyền thoại và dấu ấn lịch sử oai hùng của thời Đông A.
Xã An Lạc có đền Cao thờ năn anh em họ Vương với nhều truyền thuyết nói về cái cung cấm quanh năm cửa đóng im ỉm rất linh thiêng. Bất cứ ai…dù chỉ là tò mò đẩy cửa nhòm vào đều bị những hình phạt thảm khốc, chí ít là ốm thập tử nhất sinh đến rụng tóc đầu, nặng thì toi mạng.
Cách bài trí với khoảng không gian trong cung cấm?, có tượng, bài vị , không? Đấy là điều bí mật chưa được lời giải đáp.
Từ thủa bé mặc quần đùi đi chân đất và chẳng biết tự lúc nào, dấu ấn nào đã in đậm trong tôi đó là ngôi đền thờ tướng giặc bên Ngô. Lúc đó, cung cấm có bệ thờ bằng đất , nền là nền đất ẩm thấp (hình như bây giờ vẫn vậy). Khi đi học, biết đọc lịch sử và xuy ngẫm tôi mới biết ra rằng: với kế sách ngoại giao cương quyết nhưng mềm dẻo của một nước nhỏ với một nước lớn thời bấy giờ, cha ông ta đã cho phép người HOA sống trên đất Việt được phép xây dựng đền thờ để họ cúng giỗ tổ tiên của họ. Tôi đã tìm được lời giải đáp- đó là việc hợp lòng nhân nghĩa, là việc cần làm của cha ông lên mọi thắc mắc cũng dần quên lãng đi .
Vào những 90 của thế kỷ trước, khi đọc bằng chứng nhận “Di tích lịch sử văn hóa” đền Cao tôi mới biết, đền Cao là một trong những ngôi đền ở xã An Lạc thờ năm anh em họ Vương?
Những năm gần đây, tôi thường được tăng cường công việc bảo vệ những kỳ lễ hội đền Cao lên càng có dịp tiếp súc, tìm hiểu thêm ở phần văn hóa tâm linh này.
...Việt Nam với tục thờ Mẫu. đó là các đấng siêu nhiên và những nhân thần được dân gian tôn phong, thần thánh hóa thêm việc đấu tranh, bảo
hộ của nhân vật mà dân gian đang thờ tự. Ở đây, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống hiện hữu chứ không quan tâm đến cái gì sau khi chết đi như đạo thờ phật. Đến với đạo Mẫu là đến với sự bảo hộ, đấu tranh, là trừ tà, tróc quỷ. Theo quan niệm của đạo Mẫu, khi ta đến dâng hương ở các đền đình thì không một tà ma nào dám đi theo làm hại được.
Cũng chính vì vậy, ta không hề thấy ở bất cứ một đình, đền nào có lăng mộ trong nội tự chôn cất những thi hài như ở các chùa chiền.
Trở lại với đền Cao- một ngôi đền cổ nổi tiến linh thiêng tọa lạc trên đỉnh núi rợp bóng cây, ngay sát tường hậu cung về hướng tây là những ngôi mộ cổ cũng rất linh thiêng và huyền thoại, đặc biệt có ngôi mộ là ông tổ của mười hai dòng họ như họ Cao, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Hoàng vv… Những nghi thức trọng đại như: xin lệnh làm “ông Trùm” của đền Cao đều được tổ chức trang trọng ở đây chứ không phải ở trong đền. Tước vị này là suốt đời. Nếu hệ lụy đại tang danh tước bị hủy bỏ, dân làng làm đại lễ để xin bầu ông trùm mới. Sau những vòng “Sơ khảo” ứng cử đến trước ngôi mộ linh thiêng là ông tổ của 12 dòng họ “ xin đài”âm dương bằng cách đầu đội một cái mâm trên đó có hai đồng xu , từ từ nghiêng mâm dội hai đòng xu xuống một cái mâm khác ở phía dưới với khoảng cách khoảng 0,70m. Chỉ xin một lần( nhất đài), nếu không đắc đài (đắc đài là hai đồng xu mặt sấp mặt ngửa ) chức vị đó khuyết , năm sau dân làng làm “ đại lễ” xin lại.
Nhìn chung, đền hay đình, có thể các sách , các bia, và cả phần “Hội” cũng bị “tam sao thất bản”. Còn các nghi thức về “ lễ” thì bền vững hơn vì mang nặng tính đặc trưng thờ cúng của ngôi đền, đình đó.
Đền Cao cũng vậy. Phần “Hội”, ngoài các trò vui truyền thống như rước kiệu, cờ tướng, chọi gà vv… Còn có thêm những trò chơi hiện đại : bóng chuyền, cầu lông...
Tán tía, lọng vàng, đai vàng khảm ngọc, nhã nhạc vang lừng theo điệu“Lưu thủy”. Đó là đặc trưng phần “ Lễ” của người Việt. Đền Cao thì khác hẳn, khi tế lễ, trống không theo điệu “Lưu thủy” . Các “ Quan viên tế” áo thụng mầu đen, đội mũ mầu đen, chân đất, mồm bịt một miếng vải. Ban khánh tiết( ban bô lão chuyên lo việc lễ cho các tiết Hạ, Thu, Đông vv…) thì gọi là “Quan đám”, khi dâng hương trong đền phải là hương đen. Cao hơn tất cả “quan đám” là “ ông trùm” ( chức ông trùm là tối thượng ở đền, được cả tổng xã trọng vọng)
Đây quả là một điều khác lạ khiến ta phải xuy ngẫm?.
An Lạc còn một làng có đặc trưng rất riêng biệt. Đó là làng An Bài. Làng này không bao giờ đi lễ ở đền Kiêp Bạc ( thờ Trần Hưng Đạo )Các trai đinh không phải làm phu kiệu (khênh kiệu) ở đền Cao, và cũng chính là làng có miếu thờ Phạm Nhan. Cách đây khoảng 20 năm, tôi đã đến thôn An Bài tìm hiểu nhưng không một ai mặn mà câu truyện để chỉ lối đưa đường. Nhờ mãi, một người bạn đồng ngũ đã đồng ý cùng tôi vạch được đám cây rừng um tùm ven sông đến một ngôi miếu nhỏ tưởng chừng như hoang phế nhưng vẫn có bát hương và những chân hương cháy dở, vén tấm vải trên ban thờ không có bài vị, chỉ có hình đắp nổi một con đỉa rất to. Tôi rùng mình quay ra.
Phạm Nhan- Dân gian ai cũng biết tên hắn. Vì tính khách quan của lịch sử, chúng ta cùng tìm hiểu.
Hắn tên Bá Linh, họ Phạm, Phạm Nhan là tên chữ khi hắn đi thi và làm quan. Theo PGS- TS Nguyễn Đăng Na – một nhà Hán Nôm rất nổi tiếng ở nước ta- bố hắn là người Quảng Đông(Trung Quốc )sang buôn bán ở chợ Đông Hồ, lấy vợ làng An Bài và sinh ra hắn tại đây. Lớn lên hắn về quê cha, đi thi, đỗ tiến sỹ, vì có tài làm thuốc lại biết pháp thuật lên được tuyển vào cung. Do thông dâm với cung nữ, bị khép án chém đầu. đúng lúc đó vua Nguyên khởi công đánh Đại Việt lần thứ ba. Hắn xin cầm quân, lấy công chuộc tội với lý do rất thông thuộc “Sào huyệt” của tiết chế Hưng Đạo Đại Vương”. Đạo quân của hắn tràn vào Đại Việt với mối hận rửa nhục hai lần thất trận nên đi đến đâu chém giết rất dã man.
Chiều ngày 9/ 3/ 1288 hắn bị đại bại trên sông Bạch Đằng và bị bắt sống.
Huyền thoại về cái chết của hắn cũng rất “Hiện đại” Đáng để người đời xuy gẫm’
Chuyện kể rằng: khi Hưng Đạo Đại Vương bắt được tướng giặc Phạm Nhan đem chém đầu, cứ chém đầu này thì đầu khắc lại mọc, nhờ có bà hàng nước mách bảo: Lấy vôi trộn với cứt gà sáp bôi vào gươm. Khi mang gươm tới, Phạm Nhan biết mình xẽ chết bèn cầu xin: xin hãy chém tôi thành ba mảnh, phần đầu thả xuống sông, thây vứt vào rừng, chân tay đem
đốt rồi tung lên trời. Lời cầu xin của kẻ xắp chết được ưng chuẩn.
Sau này, phần thân Phạm Nhan biến thành vắt , phần chân tay biến thành muỗi, còn phần đầu biến thành đỉa nhưng có cái lạ là cái đầu không bị phân hủy, mục thối, cứ xuôi theo sông trôi về đến làng An Bài (Chí Linh, Hải Dương) thì tấp vào bờ, không trôi đi nữa.
Từ đó, cái đầu Bá Linh tác oai tác quái, nhất là đàn bà sau khi mới sinh nở nếu có việc phải đi qua chỗ đó xẽ bị Phạm Nhan bắt mất vía để hút hết máu, gầy mòn dần cho đến chết. Người phụ sản nào bị mắc bệnh “Phạm Nhan” cứ mua chiếu mới , mang đến đền Kiếp Bạc đổi lấy chiếu cũ đem về trải nằm là bệnh xẽ thuyên giảm.
Để không bị hại, dân làng lập miếu thờ Phạm Nhan.
Chyện thật sâu sắc và ghê tởm về một đứa con phản bội, dám vì mạng sống của mình mà mang quân về giầy séo đất quê mẹ, trên thì đắc tội với cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ quê mẹ, chết rồi còn đi hút máu người, đến cả máu hôi hám của đàn bà mới đẻ hắn cũng thèm thuồng.
Chuyện có kể dân lập miếu thờ Pham Nhan với dụng ý nhắc nhở muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, đó là tấm gương minh chứng cho sự thối tha hơn cả mọi sự thối tha.
Mỗi thời có một cách giáo dục khác nhau nhưng nếp nghĩ ấy, niềm tin ấy đáng kính biết chừng nào.
Làng MO.Ngày 2 tháng 7 năm 2012
Còn nhiều điều …bí mật
Chi
Linh (Hải Dương) – quê hương bát cổ với rất nhiều di tích lịch sử văn hóa đang được
bảo tồn, những hạng mục dựng xây cùng vốn đầu tư mang tầm cỡ quốc gia xây dựng
đền thờ thày giáo Chu Văn An, Côn Sơn, Kiếp Bạc. Mở rộng khu vực đền Sinh, đền
Hóa vv...mà vẫn giữ được những nét cổ truyền đậm sắc thái văn hóa địa phương.
Đặc
biệt là xã An Lạc( Chí Linh, Hải Dương)
với những địa danh còn lưu giữ phần văn hóa địa phương pha trộn giữa huyền
thoại và dấu ấn lịch sử oai hùng của thời Đông A.
Xã
An Lạc có đền Cao thờ năn anh em họ Vương với nhều truyền thuyết nói về cái
cung cấm quanh năm cửa đóng im ỉm rất linh thiêng. Bất cứ ai…dù chỉ là tò mò
đẩy cửa nhòm vào đều bị những hình phạt thảm khốc, chí ít là ốm thập tử nhất
sinh đến rụng tóc đầu, nặng thì toi mạng.
Cách
bài trí với khoảng không gian trong cung cấm?, có tượng, bài vị , không? Đấy là
điều bí mật chưa được lời giải đáp.
Từ
thủa bé mặc quần đùi đi chân đất và chẳng biết tự lúc nào, dấu ấn nào đã in đậm trong tôi đó là ngôi đền
thờ tướng giặc bên Ngô. Lúc đó, cung cấm có bệ thờ bằng đất , nền là nền đất ẩm
thấp (hình như bây giờ vẫn vậy). Khi đi học, biết đọc lịch sử và xuy ngẫm tôi
mới biết ra rằng: với kế sách ngoại giao cương quyết nhưng mềm dẻo của một nước
nhỏ với một nước lớn thời bấy giờ, cha ông ta đã cho phép người HOA sống trên
đất Việt được phép xây dựng đền thờ để họ cúng giỗ tổ tiên của họ. Tôi đã tìm
được lời giải đáp- đó là việc hợp lòng
nhân nghĩa, là việc cần làm của cha ông
lên mọi thắc mắc cũng dần quên lãng đi .
Vào những 90 của thế kỷ trước, khi đọc bằng chứng nhận “Di
tích lịch sử văn hóa” đền Cao tôi mới biết, đền Cao là một trong những ngôi đền
ở xã An Lạc thờ năm anh em họ Vương?
Những năm gần đây, tôi thường được tăng cường công việc bảo
vệ những kỳ lễ hội đền Cao lên càng có dịp tiếp súc, tìm hiểu thêm ở phần văn
hóa tâm linh này.
...Việt Nam với tục thờ Mẫu.
đó là các đấng siêu nhiên và những nhân thần được dân gian tôn phong, thần
thánh hóa thêm việc đấu tranh, bảo
hộ của nhân vật mà dân gian
đang thờ tự. Ở đây, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống hiện hữu chứ không quan tâm
đến cái gì sau khi chết đi như đạo thờ phật. Đến với đạo Mẫu là đến với sự bảo
hộ, đấu tranh, là trừ tà, tróc quỷ. Theo quan niệm của đạo Mẫu, khi ta đến dâng
hương ở các đền đình thì không một tà ma nào dám đi theo làm hại được.
Cũng chính vì vậy, ta không hề thấy ở bất cứ
một đình, đền nào có lăng mộ trong nội tự chôn cất những thi hài như ở các chùa chiền.
Trở
lại với đền Cao- một ngôi đền cổ nổi
tiến linh thiêng tọa lạc trên đỉnh núi rợp bóng cây, ngay sát tường hậu cung về
hướng tây là những ngôi mộ cổ cũng rất linh thiêng và huyền thoại, đặc biệt có
ngôi mộ là ông tổ của mười hai dòng họ như họ Cao, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Hoàng
vv… Những nghi thức trọng đại như: xin lệnh làm “ông Trùm” của đền Cao đều được
tổ chức trang trọng ở đây chứ không phải ở trong đền. Tước vị này là suốt đời.
Nếu hệ lụy đại tang danh tước bị hủy bỏ, dân làng làm đại lễ để xin bầu ông
trùm mới. Sau những vòng “Sơ khảo” ứng
cử đến trước ngôi mộ linh thiêng là ông tổ của 12 dòng họ “ xin đài”âm dương
bằng cách đầu đội một cái mâm trên đó có hai đồng xu , từ từ nghiêng mâm dội
hai đòng xu xuống một cái mâm khác ở phía dưới với khoảng cách khoảng 0,70m.
Chỉ xin một lần( nhất đài), nếu không đắc
đài (đắc đài là hai đồng xu mặt sấp mặt ngửa ) chức vị đó khuyết , năm sau dân
làng làm “ đại lễ” xin lại.
Nhìn chung, đền hay đình, có thể các sách , các bia, và cả
phần “Hội” cũng bị “tam sao thất bản”. Còn
các nghi thức về “ lễ” thì bền vững hơn
vì mang nặng tính đặc trưng thờ cúng của ngôi đền, đình đó.
Đền Cao cũng vậy. Phần “Hội”, ngoài các trò vui truyền thống như rước kiệu,
cờ tướng, chọi gà vv… Còn có thêm những trò chơi hiện đại : bóng chuyền, cầu
lông...
Tán tía, lọng vàng, đai vàng khảm
ngọc, nhã nhạc vang lừng theo điệu“Lưu thủy”. Đó là đặc trưng phần “ Lễ” của người Việt. Đền
Cao thì khác hẳn, khi tế lễ, trống không theo điệu “Lưu thủy” . Các “ Quan viên
tế” áo thụng mầu đen, đội mũ mầu đen, chân đất, mồm bịt một miếng vải. Ban khánh tiết( ban bô lão chuyên lo việc lễ
cho các tiết Hạ, Thu, Đông vv…) thì gọi là “Quan đám”, khi dâng hương trong đền
phải là hương đen. Cao hơn tất cả “quan đám” là “ ông trùm” ( chức ông trùm là tối thượng ở đền, được cả
tổng xã trọng vọng)
Đây
quả là một điều khác lạ khiến ta phải xuy ngẫm?.
An
Lạc còn một làng có đặc trưng rất riêng biệt.
Đó là làng An Bài. Làng này không bao giờ đi lễ ở đền Kiêp Bạc ( thờ
Trần Hưng Đạo )Các trai đinh không phải làm phu kiệu (khênh kiệu) ở đền Cao, và cũng chính là làng có miếu thờ Phạm Nhan.
Cách đây khoảng 20 năm, tôi đã đến thôn An Bài tìm hiểu nhưng không một ai mặn
mà câu truyện để chỉ lối đưa đường. Nhờ mãi, một người bạn đồng ngũ đã đồng ý
cùng tôi vạch được đám cây rừng um tùm ven sông đến một ngôi miếu nhỏ tưởng chừng
như hoang phế nhưng vẫn có bát hương và những chân hương cháy dở, vén tấm vải
trên ban thờ không có bài vị, chỉ có hình đắp nổi một con đỉa rất to. Tôi rùng
mình quay ra.
Phạm Nhan- Dân gian ai cũng biết tên hắn. Vì tính khách quan
của lịch sử, chúng ta cùng tìm hiểu.
Hắn tên Bá Linh, họ Phạm, Phạm Nhan là tên chữ khi hắn đi thi và làm quan. Theo PGS- TS
Nguyễn Đăng Na – một nhà Hán Nôm rất nổi tiếng ở nước ta- bố hắn là người Quảng Đông(Trung Quốc )sang
buôn bán ở chợ Đông Hồ, lấy vợ làng An Bài và sinh ra hắn tại đây. Lớn lên hắn
về quê cha, đi thi, đỗ tiến sỹ, vì có tài làm thuốc lại biết pháp thuật lên
được tuyển vào cung. Do thông dâm với cung nữ,
bị khép án chém đầu. đúng lúc đó vua Nguyên khởi công đánh Đại Việt lần
thứ ba. Hắn xin cầm quân, lấy công chuộc tội với lý do rất thông thuộc “Sào
huyệt” của tiết chế Hưng Đạo Đại Vương”. Đạo quân của hắn tràn vào Đại Việt với
mối hận rửa nhục hai lần thất trận nên đi đến đâu chém giết rất dã man.
Chiều ngày 9/ 3/ 1288 hắn bị đại bại trên sông Bạch Đằng và
bị bắt sống.
Huyền thoại về cái chết của hắn cũng rất “Hiện đại” Đáng để
người đời xuy gẫm’
Chuyện
kể rằng: khi Hưng Đạo Đại Vương bắt được
tướng giặc Phạm Nhan đem chém đầu, cứ chém đầu này thì đầu khắc lại mọc, nhờ có
bà hàng nước mách bảo: Lấy vôi trộn với cứt gà sáp bôi vào gươm. Khi mang gươm
tới, Phạm Nhan biết mình xẽ chết bèn cầu xin: xin hãy chém tôi thành ba mảnh,
phần đầu thả xuống sông, thây vứt vào rừng, chân tay đem
đốt rồi tung lên trời. Lời cầu xin của kẻ xắp chết được ưng
chuẩn.
Sau
này, phần thân Phạm Nhan biến thành vắt , phần chân tay biến thành muỗi, còn
phần đầu biến thành đỉa nhưng có cái lạ là cái đầu không bị phân hủy, mục thối,
cứ xuôi theo sông trôi về đến làng An Bài (Chí Linh, Hải Dương) thì tấp vào bờ,
không trôi đi nữa.
Từ đó, cái đầu Bá Linh tác oai tác quái, nhất là đàn bà sau
khi mới sinh nở nếu có việc phải đi qua chỗ đó xẽ bị Phạm Nhan bắt mất vía để
hút hết máu, gầy mòn dần cho đến chết. Người phụ sản nào bị mắc bệnh “Phạm
Nhan” cứ mua chiếu mới , mang đến đền Kiếp Bạc đổi lấy chiếu cũ đem về trải nằm
là bệnh xẽ thuyên giảm.
Để
không bị hại, dân làng lập miếu thờ Phạm Nhan.
Chyện
thật sâu sắc và ghê tởm về một đứa con
phản bội, dám vì mạng sống của mình mà mang quân về giầy séo đất quê mẹ, trên thì
đắc tội với cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ quê mẹ, chết rồi còn đi hút
máu người, đến cả máu hôi hám của đàn bà mới đẻ hắn cũng thèm thuồng.
Chuyện có kể dân lập miếu thờ Pham Nhan với dụng ý nhắc nhở
muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho
đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, đó là
tấm gương minh chứng cho sự thối tha hơn cả mọi sự thối tha.
Mỗi thời có một cách giáo dục khác nhau nhưng nếp nghĩ ấy,
niềm tin ấy đáng kính biết chừng nào.
Làng MO.Ngày 2 tháng 7 năm 2012
NGUYỄN
TÔ QUANG
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)